Ninja được dạy về các loại vũ khí, đột nhập và đào thoát trong mọi điều
kiện, ngụy trang, ẩn thân, tàng hình, đi trên mặt nước, thậm chí giả
chết... Ninja là những người đã âm thầm
viết nên một phần trang sử thời phong kiến ở Nhật Bản. Họ là những hiệp sĩ bịt mặt,
đột nhập vào phòngy tuến địch, được thuê làm gián điệp, bắt cóc các nhân vật
quan trọng và ngay cả việc ám sát các lãnh chúa
Ninja được dạy về các loại vũ khí, đột
nhập và đào thoát trong mọi điều kiện, ngụy trang, ẩn thân, tàng hình, đi trên
mặt nước, thậm chí giả chết...
Ninja là những người đã âm thầm
viết nên một phần trang sử thời phong kiến ở Nhật Bản. Họ là những hiệp sĩ bịt mặt,
đột nhập vào phòngy tuến địch, được thuê làm gián điệp, bắt cóc các nhân vật
quan trọng và ngay cả việc ám sát các lãnh chúa. Công cụ đắc lực làm nên tên
tuổi của họ chính là môn võ Ninjutsu huyền bí.
Nguồn gốc
Mặc dù đất dụng võ của Ninjutsu
là Nhật Bản, nhưng thực ra môn này có nguồn gốc từ Trung Quốc. Nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng, Ninjutsu xuất phát từ Tôn Tử hay Tôn Võ Tử, đời Xuân Thu (722-481
TCN). Ông đã soạn ra một bộ binh pháp gồm 13 thiên, trình bày thuật dùng binh,
đồng thời cũng là áng văn chương bình dị, ý tứ dồi dào, triết lý sâu sắc.
Ninjitsu sử dụng hầu hết thuật
binh pháp của Tôn Tử, tập trung nhất là thiên “dụng gián” - nói về việc sử dụng
gián điệp trong chiến tranh. Những chiến thuật về gián điệp của Tôn Tử đã du
nhập vào Nhật Bản dưới thời lãnh chúa Shotoku (593-622) qua việc lãnh chúa này
lần đầu tiên ra lệnh thuộc hạ của mình mặc thường phục, do thám địch tình, phục
vụ cho cuộc chiến tranh. Từ đó, Ninjitsu đã hình thành và phát triển ở Nhật Bản.
Môn võ huyền thoại của quá khứ
Mãi đến năm 500 năm sau, Ninjutsu
mới bắt đầu lớn mạnh. Vào thế kỷ XII, những nhà sư ở núi Yamaloushi đã làm rạng
danh Ninjutsu khi sử dụng kỹ thuật của môn phái này chống lại sự đàn áp của nhà
vua trong nhiều trận chiến.
Cuối đời vua Heian, khoảng năm
1185, nhiều võ đường đã được thành lập để truyền dạy Ninjutsu rộng rãi trong
nhân dân. Trong đó, nổi bật nhất là võ đường của Yoshi-tesune, một Ninja khét
tiếng đương thời.
Đến thời Kamakura, vào năm 1192,
Ninjutsu bắt đầu phát triển mạnh và bành trướng rộng rãi. Có đến 25 võ đường
được thành lập để truyền dạy Ninjutsu. Một trong những thủ lĩnh Ninja nổi
tiếng của thế kỷ XVI là Sandayu Monochi từng chỉ huy một ngàn Ninja chống lại
gần năm vạn quân của tướng Oda Nobunaga.
Đến giữa thế kỷ XX, không mấy
người quan tâm đến các Ninja, chỉ còn số ít người theo đuổi nghiệp này nhằm giữ
lại truyền thống khốc liệt của Ninjitsu, không để chết theo thời gian.
Phong trào Ninja hiện đại
Tưởng chừng như môn võ này này
chết hẳn, không ngờ nó lại gây nên một phong trào ưa chuộng đặc biệt. Cách
đây hơn 20 năm, một hãng phim Nhật tình cờ sản suất cuốn phim kể lại những hành
động xuất quỷ nhập thần của các Ninja thời xưa.
Ngay sau đó, sách vở, phim ảnh,
truyền hình, triển lãm về Ninja dồn dập xuất hiện. Những hiệp sĩ bí mật xưa kia
hoạt động âm thầm trong bóng tối, nay được báo chí hết lời ca tụng.
Cơn sốt Ninja còn lan tràn đến
tận châu Úc. Trẻ em Úc chơi trò Ninja với chiếc gậy dài và những cây kiếm
Samurai bằng gỗ hay nhựa. Cửa hàng tràn ngập đồ chơi, quần áo, mặt nạ Ninja…
nhưng cũng không đủ thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng.
Thực tế và huyền thoại
Nhiều nhà nghiên cứu võ học đã
khẳng định, Ninjutsu truyền thống và Ninjutsu hiện đại không cách xa nhau lắm.
Chương trình huấn luyện Ninjutsu truyền thống cũng bao gồm việc rèn luyện cho
các Ninja khả năng sử dụng thông thạo các môn võ, loại vũ khí (bao gồm cả ám
khí, hơi độc, hỏa khí…), phương pháp di chuyển, đột nhập và đào thoát trong mọi
điều kiện, cũng như cách ngụy trang, ẩn thân, thậm chí giả chết… nhằm mục đích
tối thượng là hoàn thành tốt sứ mệnh được giao.
Tuy nhiên, do quá bất ngờ trong
sự chạm trán với các Ninja, người ta không lý giải được các hành tung đặc dị
của những sát thủ vô hình này nên đã gán vào đấy một bức màn sương mù huyền thoại.
Thật ra, tất cả đều do quá trình khổ luyện môn Ninjutsu một cách thành thục mà
thôi.
Chẳng hạn việc Ninja có thể sống
dưới nước như loài cá mà dân gian vẫn thường truyền tụng, thực chất các Ninja
đã sử dụng các ống sậy rỗng làm ống thở.
Thêm nữa, các Ninja có thể mang
theo túi da chứa đầy không khí để thở khi ở dưới nước trong thời gian dài. Các
Ninja đã sử dụng loại giày da bơm đầy khí để đi trên mặt nước. Và để sử
dụng được loại giày này, họ đã phải khổ công tập luyện nhiều năm mới đứng vững
trên mặt nước, đạt được sự thăng bằng và kiểm soát thân thể.
Các Ninja cũng thường mang theo
bên mình những ống thuốc nổ, quăng ngay vào mặt địch thủ khi khẩn cấp. Ống
thuốc nổ tung, khói bay mù mịt, làm lóa mắt địch thủ trong giây lát và như thế
Ninja có thể biến mất (hay tàng hình) trong đám khói mù.
HONG NHUNG C&T sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét